Friday, December 20, 2013

" Ở cuối hai con đường "

" Ở cuối hai con đường "
(Một câu chuyện hoàn toàn có thật.
Tác giả xin được kể lại nhân dịp
ngày miền Nam thất thủ)
Phạm Tín An Ninh 

Những năm "cải tạo" ở miền Bắc, tôi được chuyển đi khá nhiều trại.
Từ Lào Cai, xuống Hoàng Liên Sơn, rồi Nghệ Tĩnh.
Khi mới đến Hoàng Liên Sơn, tôi được đưa đến trại Hang Dơi, nằm sâu trong núi. Đây là một vùng sơn lâm chướng khí, nên chỉ mới gần hai năm mà tôi đã có hơn 20 người bạn tù nằm lại vĩnh viễn ở dưới sườn đồi. 
Sau đó, tôi được chuyển về trại 6/ Nghĩa Lộ. Trại này nằm gần Ban chỉ huy Tổng Trại, và cách trại 5, nơi giam giữ gần 30 tướng lãnh miền Nam, chỉ một hàng rào và mấy cái ao nuôi cá trám cỏ. Ban ngày ra ngoài lao động, tôi vẫn gặp một vài ông thầy cũ, kể cho nhau nghe đủ thứ chuyện vui buồn.
Ngày nhập trại, sau khi "biên chế" xong, cán bộ giáo dục trại đưa 50 thằng chúng tôi vào một cái láng lợp bằng nứa, nền đất, ngồi chờ "đồng chí cán bộ quản giáo" đến tiếp nhận.
Vài phút sau, một sĩ quan mang quân hàm thượng úy đi vào láng. Điều trước tiên chúng tôi nhìn thấy là
anh ta chỉ còn một cánh tay. Một nửa cánh tay kia chỉ là tay áo bằng kaki Nam Định, buông thỏng xuống và phất phơ qua lại theo nhịp đi của anh. Không khí trở nên ngột ngạt. Không nói ra, nhưng có lẽ trong đám tù chúng tôi ai cũng có cùng một suy nghĩ:
 - Đây mới đích thực là nợ máu đây, biết trả như thế nào cho đủ?
Nhưng bất ngờ, người cán bộ quản giáo đến trước chúng tôi,
miệng nở nụ cười. Nhìn khuôn mặt hiền lành, và ánh mắt thật thà, chúng tôi cũng bớt lo âu.
Bằng một giọng đặt sệt Nghệ Tỉnh, anh quản giáo giới thiệu tên mình: Nguyễn văn Thà, rồi "báo cáo" môt số nội quy, yêu cầu của Trại. Anh đưa cho anh đội trưởng một tập vở học trò, phát cho anh em mỗi người một tờ giấy để làm bản "lý lịch trích ngang".
Tôi đang ngồi hý hoáy viết cái bản kê khai lý lịch ba đời với bao nhiêu thứ "tội" dưới biển trên trời mà tôi đã thuộc lòng từ lâu lắm - bởi đã phải viết đến cả trăm lần, ngay cả những lần bị đánh thức lúc nửa đêm - bỗng nghe tiếng anh quản giáo hỏi:
-
Trong này có anh nào thuộc Sư 23?
Tôi im lặng giây lát rồi lên tiếng:
- Thưa cán bộ, có tôi ạ.
- Anh ở trung đoàn mấy.
- Trung Đoàn 44.
- Vậy anh có tham dự trận đánh Trung Nghĩa ở KonTum đầu mùa hè 1972?
- Vâng, có ạ.
Anh quản giáo đưa cánh tay bị mất một nửa, chỉ còn cái tay áo đong đưa, lên:
- Tôi bị mất cánh tay này trong trận đó.
Nhìn qua anh em, thấy tất cả mọi con mắt đều dồn về phía tôi. Để lấy lại bình tĩnh, tôi làm ra vẻ chủ động: 
- Lúc ấy cán bộ ở đơn vị nào?
- Tôi ở trung đoàn xe tăng thuộc Sư 320.
Anh quản giáo rảo mắt nhìn quanh, rồi hạ giọng tiếp tục:
-
Trận ấy đơn vị tôi thua nặng. Cả một tiểu đoàn tăng của tôi còn có 2 chiếc. Chiếc T54 của tôi bị bắn cháy. Tôi thoát được ra ngoài, nhưng bị các anh bắt làm tù binh.
- Sau đó cán bộ được trao trả? tôi hỏi.
- Tôi bị thương nặng lắm,
do chính đạn trong xe tôi phát nổ. Tôi được các anh đưa về quân y viện Pleiku chữa trị. Nhờ vậy mà tôi còn sống và được trao trả tù binh đợt cuối cùng năm 1973, sau khi có hiệp định Ba Lê.

Dạo đó, miền Bắc, đặc biệt trên vùng Hoàng Liên Sơn, trời lạnh lắm. Mỗi láng được đào một cái hầm giữa nhà, đốt những gốc cây được anh em nhặt ngoài rừng, sau giờ lao động, mang về sưởi ấm. Tối nào, anh quản giáo cũng xuống sinh hoạt với anh em. Gọi là sinh hoạt, nhưng thực ra anh chỉ tâm tình những chuyện vui buồn đời lính, thăm hỏi hoàn cảnh của anh em tù, và khuyên anh em nên cố gắng giữ gìn sức khỏe, đừng làm điều gì sai phạm để không phải nghe mấy ông cán bộ nặng lời. Anh thường nói:
- Tôi rất đau lòng, khi thấy các anh phải nghe những lời thô lỗ. Tôi biết
các anh đều là những người có trình độ văn hóa và ai cũng đã từng chỉ huy.
Mùa đông, không trồng trọt được, nên khẩu phần ăn của một người tù chỉ có một miếng bánh mì đen bằng hai ngón tay, hoặc lưng một bát bắp hạt. Phần thiếu ăn, một phần ẩm ướt thiếu vệ sinh, nên nhiều anh em tù bị bệnh kiết lỵ. Thuốc men hoàn toàn không có, nên bệnh kéo dài lâu ngày. Nhiều người đứng không vững.
Một buổi chiều cuối đông, mưa phùn rả rích, sương mù giăng kín cả thung lũng trại tù, cả đám tù chúng tôi ngồi co ro trong láng, cố nhai từng hạt bắp cứng như viên sỏi, nhìn ra cánh đồng phía trước, thấp thoáng một người mang áo tơi (loại áo mưa kết bằng lá cây) chạy lúp xúp từ chỗ này đến chỗ khác, cho đến khi trời tối. 
Đêm đó, như thường lệ, anh Thà xuống sinh hoạt với anh em bên bếp lửa. Anh bảo nhỏ anh đội trưởng:
- Tôi để một giỏ cá đàng sau láng. Trước giờ ngủ, anh ra mang vào, chia cho mấy anh bị bệnh kiết lỵ đang mất sức để các anh bồi dưỡng. Nhớ giữ kín, đừng để trên biết.
Bây giờ anh em mới hiểu, người mà chiều nay, đặt lờ bắt cá ngoài đồng ruộng
chính là quản giáo Thà. Ai cũng cảm động.
Biết là anh em tù bị đói triền miên, nhất là sau mùa đông dài, một buổi sáng đầu mùa xuân, quản giáo Thà đưa cả đội 50 người tù lên một đồi trồng toàn sắn của một hợp tác xã nào đó. Sắn đầu mùa, củ còn nhỏ. Anh chỉ cho anh em cách đào lấy củ mà thân sắn vẫn còn nguyên; đào mấy cái bếp "Hoàng Cầm" để luộc sắn mà không ai phát hiện có khói. Anh dắt hai anh tù xuống đồi xách hai thùng nước mang lên, căn dặn anh em thay phiên nhau luộc sắn ăn cho no.
Anh đích thân ở lại đứng gác, nếu có ai vào, anh vờ ra lệnh "chuẩn bị đi về", anh em tức khắc dấu hết "tang vật" xuống một cái hố đã đào sẵn.
Dường như đó là cái ngày duy nhất mà 50 người tù chúng tôi được no -dù chỉ là no sắn- 
Không biết tối hôm ấy, trong giờ "giao ban", quản giáo Thà đã báo cáo với ban chỉ huy trại là đội tù của chúng tôi đã phát được bao nhiêu hecta rừng?
Mỗi lần ra bãi thấy anh em lao động nặng nhọc, anh Thà bảo nhỏ:
- Anh em làm việc vừa phải, khi nào mệt thì ta nghỉ. Nhớ giữ gìn sức khỏe, vì thời gian cải tạo còn dài lắm.
Vào một dịp Tết,
cầm giấy nghỉ phép trong tay, nhưng anh không về nhà, mà ở lại với anh em. Số tiền lương vừa lãnh được, anh mua mấy bánh thuốc lào, vài ký kẹo lạc, biếu anh em ăn tết. Lần ấy, anh tâm sự thật nhiều với anh em:
- Lần bị thương năm 1972 ở Kontum, tôi nghĩ là tôi đã chết. Vết thương quá nặng, lại phải nằm trong rừng rậm một mình, không có thức ăn, nước uống. Trong lúc tuyệt vọng nhất, tôi bất ngờ được một đơn vị của Sư 23 các anh phát giác. Các anh băng bó vết thương, cho tôi ăn uống,
tận tình săn sóc tôi như một người đồng ngũ. Các anh luân phiên khiêng tôi ra khỏi khu rừng rậm, gọi máy bay tản thương đến đưa tôi về bệnh viện. Trời tối, máy bay chưa xuống được, đảo mấy vòng, thì vị trí bị lộ. Các anh bị pháo kích, may mà không có ai bị thương. Các anh lại phải vội vàng di chuyển đi nơi khác. Cả khu rừng chỉ có một khe đá là nơi trú ẩn an toàn, các anh lại dành cho tôi, rồi phân tán mỏng. Tôi được hai anh y tá săn sóc suốt cả đêm. Người chỉ huy hôm ấy là một anh rất trẻ, mang quân hàm trung úy, mấy lần ôn tồn hỏi thăm tôi và khuyên tôi cố gắng để được đưa về quân y viện chữa trị. Anh còn cho tôi nửa bao thuốc lá còn lại của anh, bảo tôi hút thuốc để quên bớt cơn đau của vết thương.
Sáng sớm hôm sau, tôi được máy bay tản thương đưa tôi về quân y viện Pleiku. Ở đây, mặc dù tôi phải nằm riêng, nhưng được bác sĩ các anh chăm sóc tận tình. Tất cả đã đối xử với tôi như người đồng đội. Có lần, một phái đoàn đến ủy lạo thương binh các anh, họ cũng đến thăm, cho tôi quà, và an ủi tôi thật chân tình.
Vết thương vừa lành, thì tôi được lệnh trao trả tù binh. Khi chia tay, bệnh viện còn cho tôi nhiều thuốc men và một số đồ dùng. Lòng tôi tràn ngập cảm xúc. Tôi nghẹn ngào trước tình con người, tình dân tộc mà các anh đã dành cho tôi. Tình cảm ấy tôi chôn chặt tận đáy lòng, không dám tâm sự cùng ai, vì lòng tôi lúc nào cũng nghĩ đến vợ con tôi, và nhất là người mẹ già gần tuổi 80 đang ngày đêm mong chờ tôi trở về.
Anh cố gắng giữ bình tĩnh, nhưng rõ ràng là giọng nói của anh sắp nghẹn ngào. 
- Khi về lại ngoài Bắc, người ta có còn tin cậy anh không? - một anh tù hỏi.
- Ngay sau khi được trao trả, tôi phải vất hết thuốc men và những thứ các anh cho. Tôi cố dấu mấy viên thuốc trụ sinh phòng nhiễm trùng, nhưng họ khám xét kỹ quá, tôi phải tìm cách vất đi. Trước khi đưa về Bắc, chúng tôi được học tập hơn một tháng, làm kiểm điểm và
lên án sự đối xử tàn ác của các anh. Tôi thấy xấu hổ lắm khi nói điều ngược lại, nhưng rồi ai cũng thế, không thể làm khác hơn. Chính vì vậy mà lòng tôi cứ dằn vặt mãi cho đến hôm nay. 
Thời gian vàng son của năm mươi người tù đội 4 trại 6/ Nghĩa Lộ, Hoàng Liên Sơn, kéo dài không quá sáu tháng. 
Một buổi sáng sớm, khi sương mù còn vương trên thung lũng trại tù, một người đạp chiếc xe đạp vội vã rời ban chỉ huy trại. Sau xe đèo theo một cái rương bằng gỗ và một túi đeo lưng bộ đội. Một vài anh em nhận ra anh Thà và báo cho anh em. Cả một đội 50 người tù vừa mới thức dậy, còn ngái ngủ, chạy ùa ra sân, vẫy tay gọi. Anh Thà không nhìn lại, đưa cánh tay chỉ còn một nửa lên vẫy vẫy, rồi biến dạng trước cổng trại.
* * *
Chiếc thuyền nhỏ mang theo trên 30 người vượt biển, trong đó có tôi và ba người bạn cùng tù ở Nghĩa Lộ ngày trước, ra đến hải phận quốc tế hai ngày thì gặp bão. Chúng tôi may mắn được một chiếc tàu chuyên chở dầu hỏa của vương quốc Nauy, trên đường từ Nhật sang Singapore , cứu vớt. Hai ngày đêm trên tàu là cả một thiên đường. Từ vị thuyền trưởng đến anh thủy thủ, chị bác sĩ, y tá, đều hết lòng săn sóc lo lắng cho chúng tôi. Hôm rời tàu để được chuyển đến trại tị nạn Singapore , chúng tôi quá xúc động không ai cầm được nước mắt. Tất cả thủy thủ đoàn đều ra đứng thành hai hàng dài trên boong tàu, ai nấy đều khóc sướt mướt ôm lấy từng người chúng tôi mà chia tay.
 Rồi những ngày sống trong trại, chúng tôi được thầy cô giáo và ông đại sứ Nauy, thường xuyên có mặt lo lắng cho chúng tôi đủ điều. Chúng tôi vừa xúc động vừa đau đớn. Nỗi đau của một người vừa mới bị anh em một nhà hành hạ, đuổi xô đến bước đường cùng, phải bỏ nhà bỏ xứ để thoát thân trong cái chết, bây giờ lại được những kẻ xa lạ không cùng ngôn ngữ, màu da, màu tóc, lại hết lòng đùm bọc yêu thương. Mang cái ân tình đó, chúng tôi chọn Nauy là nơi tạm gởi phần đời còn lại của mình.
Bốn anh em, những người cùng tù Nghĩa Lộ năm nào, được sắp xếp ở gần nhau. Mỗi ngày gặp nhau đều nhắc lại những năm tháng khốn khổ trong tù.
Đặc biệt khi nhắc tới quản giáo Thà, ai trong chúng tôi cũng ngậm ngùi, nghĩ đến một người không cùng chiến tuyến mà còn có được tấm lòng.
Sau lần bị "hạ tầng công tác" ở trại tù Nghĩa Lộ, không biết anh đi về đâu, nhưng chắc chắn là bây giờ cũng vất vả lắm. 
Sau hai năm theo học, tôi được nhận vào làm trong ngân hàng bưu điện trung ương. Tại đây, tôi quen với Kenneth Hansen, một bạn đồng nghiệp còn trẻ tuổi, lại ở gần nhà, nên sau này trở nên thân tình. Anh ta là sinh viên đang theo học về kinh tế, chỉ làm việc thêm ngoài giờ học. Làm chung gần một năm, thì anh bạn Nauy này lại được nhận vào một công ty lớn và sang làm việc ở chi nhánh bên Ấn Độ.
Bẵng đi vài năm, bất ngờ một hôm anh gọi điện thoại báo là sẽ đến thăm tôi và đem đến cho tôi một bất ngờ. Và đúng là bất ngờ thật, vì cùng đến với anh là một người con gái Việt nam. Anh giới thiệu với vợ chồng tôi,
đó là vị hôn thê của anh.
Cô gái tên Đoan, nói giọng Hà Nội chính tông. Gặp chúng tôi ở một nơi xa lạ, cô vui mừng lắm, nhưng khi nhìn thấy tấm ảnh của tôi treo trên tường, mang quân phục và cấp bậc của quân đội VNCH, cô có vẻ ái ngại. Biết vậy, chúng tôi cũng niềm nỡ, đùa cợt cho cô được tự nhiên.
Cô cho biết cô là bạn thân với nữ ca sĩ Ái Vân từ lúc hai người còn đi học ở Hà Nội. Sau sáu năm du học ở Đông Đức, rồi Liên Xô, cô được sang thực tập tại Ấn Độ. Chính tại đây cô có dịp gặp và quen với chàng trai Nauy này. Khi ấy cô đã có chồng và một đứa con trai. Người chồng trước cùng du học ở Liên Xô, sau này trở thành một cán bộ cao cấp trong ngành dầu khí tại Hà Nội.
 Sau thời gian thực tập ở Ấn Độ trở về, cô được bạn bè và người thân cho biết là anh chồng đã cặp một cô gái khác chỉ một vài tuần sau ngày cô đi. Cô đem việc này nói phải trái với chồng, lại bị anh ta hành hung và nói những lời thô lỗ. Cô vừa buồn vừa giận, bỏ chồng, xin sang học tiếp chương trình Tiến sĩ tại một đại học ở Đông Đức. 
Sau ngày bức tường Bá Linh ô nhục bị nhân dân Đức phá sập, nước CHND Đức (Đông Đức) bỗng chốc không còn nữa. Cô không về nước mà tìm cách trốn sang Tây Đức.
Qua một thời gian hết sức khó khăn, cô may mắn liên lạc được với anh Kenneth Hansen, để được bảo lãnh sang Nauy. Biết cô thuộc gia đình một đảng viên cộng sản cao cấp, bởi cô được du học ở nhiều nước thuộc khối cộng sản trước đây, nhưng tôi không hỏi vì sợ cô ngại.
Sau này chính Kenneth Hansen cho biết bố của cô trước kia là đại sứ Việt Nam tại Liên Xô cũ. Sau ngày Liên Xô sụp đổ, kéo theo sự tan vỡ của toàn khối cộng sản Đông Âu, ông xót xa nhìn ra được một điều gì đó. Trở về Việt Nam , ông không còn được nhà nước Cộng sản trọng dụng, trở thành kẻ bất mãn, cả ngày nằm nhà không tiếp xúc một ai.
Sau một thời gian, được cấp quốc tịch Nauy, cô Đoan trở về Việt Nam thăm gia đình, đặc biệt là người cha già đang ốm nặng. Nhân tiện xin mang đứa con trai sang Nauy với cô. 
Việc cô Đoan trở về Hà Nội, làm tôi nghĩ đến anh quản giáo Nguyễn văn Thà thuở trước.
Tôi cùng với mấy người bạn tù cũ, góp một số tiền khoảng 800 đôla, nhờ cô Đoan về Nghệ Tĩnh tìm và trao lại cho anh, như để tỏ chút lòng biết ơn một người bao nhiêu năm sống trong đám bùn lầy nước đọng mà vẫn còn giữ sạch được tấm lòng. Việc tìm anh không phải dễ dàng, vì chúng tôi không biết nhiều về anh. Trong mảnh giấy nhắn tin, chỉ vỏn vẹn vài chữ: "ông Nguyễn văn Thà, gốc Nghệ Tĩnh, khoảng năm 1979 là thượng úy, làm quản giáo trại tù cải tạo số 6/ Nghĩa Lộ, Hoàng Liên Sơn".
Cô Đoan vui vẻ nhận lời và hứa sẽ tìm đủ mọi cách để gặp hoặc liên lạc anh Thà. Cô cũng cho biết là cô có ông chú họ hiện làm việc tại bộ quốc phòng. Cô sẽ nhờ ông ta tìm hộ.
Một tháng sau, cô Đoan trở lại Nauy, báo cho chúng tôi biết là ông chú của cô không tìm thấy tên Nguyễn văn Thà trong danh sách sĩ quan. Ông đoán là anh ta đã bị phục viên từ lâu lắm rồi. Cô đã đích thân vào Nghệ Tĩnh, hỏi thăm mọi cơ quan, nhưng không ai biết. Cuối cùng cô phải thuê mấy tờ báo địa phương đăng lời nhắn tin, trong đó có ghi số điện thoại của tôi. Cô còn cho biết là nhân tiện có mặt ở Nghệ Tĩnh thì cô nhờ họ thôi, chứ không có nhiều hy vọng gì,
vì chỉ một ít người ở thành phố có báo đọc.
Thời gian trôi qua, bận bịu bao nhiêu việc làm ăn, lo cho con cái, để kịp hội nhập vào đời sống trên quê hương mới, chúng tôi không còn ai nhắc đến chuyện anh Thà.
Bỗng một hôm, khi đang say ngủ, nghe tiếng điện thoại reo, tôi giật mình tỉnh giấc. Xem đồng hồ, hơn hai giờ sáng. Mùa đông Bắc Âu, nhiệt độ bên ngoài cửa sổ chỉ - 20 độ C. Tôi ái ngại. Giờ này mà ai gọi điện thoại thì phải có điều gì khẩn cấp lắm. Tôi bốc ống nghe. Đầu giây bên kia là giọng một cô gái, nói tiếng Việt rất khó nghe. Cô hối hả, nhưng rất lễ phép, xin được gặp tôi. Cô cẩn thận nhắc lại tên tôi hai lần, với đầy đủ họ và tên.
- Xin lỗi, cô là ai và đang ở đâu ạ? Tôi hỏi.
- Dạ, cháu là Hà, Nguyễn Thị Hà,
cháu đang ở Ba Lan ạ.
Tôi im lặng. Thoáng lục lọi trong trí nhưng tôi không nhớ là mình đã quen ai tên Hà. Bên kia đầu giây, cô gái lên tiếng:
- Bác có còn nhớ ông Thà, làm quản giáo ở Nghĩa Lộ không ạ?
- Ông Thà, Nguyễn văn Thà, bác nhớ, nhưng cô là gì của ông Thà, và sao lại ở Ba-Lan? 
- Dạ,
ông Thà là bố cháu. Cháu ở Ba-Lan với một đứa em trai. Bọn cháu khổ lắm Bác ạ. Tiếng cô gái sụt sùi.
- Cháu cho bác số phôn, bác gọi lại ngay, để cháu khỏi tốn tiền.
Tôi gọi lại, và nghe tâm sự não nề của cô gái. Cô và em trai, tên Tĩnh, được bố mẹ lo lắng, chạy vạy, bán hết đồ đạc trong nhà, kể cả chiếc xe đạp Trung quốc mà cha cô nâng niu như là một thứ gia bảo, vay mượn thêm, lo cho
hai chị em cô sang lao động ở Ba-Lan. Sau khi chính quyền cộng sản Ba-Lan bị cuốn theo làn sóng dân chủ ở Đông Âu, chị em cô cùng hầu hết những người được chính quyền Việt Nam gởi sang lao động, đã không về nước, trốn ở lại. Vì sống bất hợp pháp, nên không tìm được việc làm chính thức. Hầu hết làm chui, buôn bán thuốc lá lậu. Một số trở thành ăn cắp, băng đảng, quay lại cướp bóc hoặc tống tiền chính những người đồng hương, đồng cảnh. Số người Việt này trở thành mối bận tâm không nhỏ cho những chính quyền mới ở các nước Đông Âu.
Hai chị em cô Hà thuê một căn gác nhỏ trong thành phố Warszawa, nhận thuốc lá của một người khác, mang đi bán. Nhưng mỗi lần dành dụm được một ít, chưa kịp gởi về giúp gia đình thì bị cướp sạch. Một hôm, cậu em trai nhận thuốc lá mang đi bán, bị cảnh sát bắt và phát hiện là số thuốc lá kia vừa bị mất cắp tại một cửa hàng Ba-Lan. Vì vậy cậu em trai bị nhốt vào tù, còn cô Hà thì đang bị truy nã. Việc xảy ra một ngày trước khi cô Hà gọi điện thoại cho tôi.
- Bây giờ cháu đang ở đâu? Tôi hỏi.
- Cháu đang trốn ở nhà một người bạn, nhưng cô ta không dám chứa cháu lâu. Cháu không biết phải làm sao, thì bất ngờ nhớ đến lá thư của ba cháu gởi cho cháu cách nay vài tháng. Ba cháu bảo cháu trong trường hợp rất cần thiết mới gọi cho bác. 
- Ba cháu bây giờ làm gì?
- Ông bị ốm nặng.
Cách nay hai năm bị tai biến mạch máu não, liệt nửa người, nên chỉ nằm một chỗ. Vì vậy nên chị em cháu trốn ở lại đây để kiếm tiền gởi về cho bố cháu điều trị và sống qua ngày bác ạ.
Tôi ghi số điện thoại, địa chỉ người bạn của Hà, tên nhà tù mà Tĩnh, em trai của Hà đang bị giam giữ, trấn an và hẹn sẽ gặp cô trong một ngày rất gần ở Ba-Lan.
Tôi nhớ tới một người bạn Ba-lan, anh Zbigniew Piwko. Chúng tôi quen khá thân lúc cả hai vừa mới đến Nauy. Anh ta lớn hơn tôi ba tuổi. Trước kia là một đại tá không quân, chỉ huy môt không đoàn chiến đấu thuộc quân đội cộng sản Ba-Lan. Về sau, anh ta ngầm ủng hộ Công Đoàn Đoàn Kết do ông Walesa lãnh đạo. Hành tung bại lộ, trong khi bị truy bắt,
anh đã lấy một chiếc trực thăng, chở gia đình, gồm người vợ và hai đứa con, bay sang Tây Đức. Theo sự thỉnh cầu của anh, gia đình anh được chính phủ Nauy đặc biệt nhận cho tị nạn chính trị. 
Anh và tôi học tiếng Nauy cùng một lớp, và sau đó có một thời gian chúng tôi cùng làm thông dịch cho Sở Cảnh Sát. Nhưng chỉ hơn một năm sau, thì tình hình chính trị ở Ba-Lan thay đổi bất ngờ. Công Đoàn Đoàn Kết của ông Walesa lãnh đạo đã thắng lợi vẻ vang. Ông được bầu làm Tổng Thống đầu tiên của nước Ba-Lan dân chủ. Anh Piwko, người bạn tị nạn của tôi,
được mời về nước để giữ môt chức vụ khá lớn trong ngành cảnh sát. Vào những dịp Giáng sinh, nhớ đến tôi, anh gởi thiệp mừng giáng sinh và năm mới. Anh kể đủ thứ chuyện về xứ sở của anh, về niềm vui và hy vọng của người dân Ba-Lan bây giờ. Sau tấm thiệp không đủ chỗ nên lúc nào anh cũng viết kèm theo vài trang giấy. Anh mời vợ chồng tôi có dịp thu xếp sang chơi với gia đình anh vài hôm và xem đất nước Ba-Lan của anh đang hồi sinh trong dân chủ.
Sáng hôm sau, tôi tìm lại số phôn và gọi cho anh. Anh rất vui mừng khi nghe tôi báo tin sang thăm. Vì đi vội, nên tôi chỉ đi một mình. Vợ chồng anh đón tôi ở phi trường, nơi dành cho VIP (thượng khách). Anh chị còn cho biết là rất thú vị khi có dịp được dùng lại ngôn ngữ Nauy để nói chuyện với tôi. Tôi thực sự xúc động trước sự tiếp đón nồng hậu mà gia đình anh đã dành cho tôi. Tôi ngại ngùng không dám nói với anh những điều muốn nhờ anh giúp. Nhưng rồi cuối cùng, tôi cũng phải tâm tình cùng anh về chuyện anh quản giáo Thà trong trại tù Nghĩa Lộ năm nào, và hoàn cảnh khốn cùng của hai đứa con hiện đang ở tại đây, ngay trên đất nước Ba-Lan của anh. Nghe tôi kể, anh ngậm ngùi giây lát rồi đứng lên ôm vai tôi, hứa sẽ hết lòng giúp tôi về việc này.
Anh đưa tôi đến gặp hai chị em cháu Hà. Đưa Hà về nhà ở với gia đình anh. Hai hôm sau anh làm thủ tục bảo lãnh Tĩnh, em của Hà từ trại tù về. 
Trước khi về lại Nauy, tôi đã thức trọn một đêm để tâm tình khuyên lơn hai chị em Hà,
biếu cho hai cháu một số tiền để tạm sinh sống và chuyển về Việt nam biếu anh Thà, bố hai cháu. Trên đường đưa tôi ra phi trường, vợ chồng Piwko bảo tôi yên tâm, anh chị xem hai chị em Hà như là cháu trong nhà và sẽ tận tình lo lắng cho hai cháu.
Hơn một tháng sau, Piwko gọi phôn báo cho tôi tin mừng: hai chị em Hà đã được Piwko bảo trợ, được cấp giấy tờ chính thức cư trú tại Ba-lan. Hai cháu đang được học ngôn ngữ Ba-lan. Hà, vì lớn tuổi, nên sẽ xin việc làm. Tĩnh, em Hà, sẽ được tiếp tục theo học tại một trường trung học. 
 
><><><><><><><><  
     "Các Anh thân quí,
      Khi ngồi viết nhừng dòng này cho các anh, thực tình tôi không còn nhớ mặt các anh, nhưng tôi còn nhớ rất rõ thời gian tôi làm quản giáo ở trại Nghĩa Lộ. Vậy mà không ngờ hôm nay các anh còn nhớ đến tôi. Đọc thư của cháu Hà từ Ba-Lan gởi về, cùng với số tiền của các anh gởi cho, lòng tôi cảm xúc đến nghẹn ngào. Tôi và gia đình xin muôn vàn cảm tạ. Các anh làm tôi nhớ tới một câu nói của Các-Mác: "Chỉ có loài súc vật mới quay lưng trước cảnh khốn khổ của đồng loại". Ngày nay, cả thế giới đều lên án Mác, những nước một thời lấy chủ nghĩa Mác làm ánh đuốc soi đường, bây giờ cũng đã từ bỏ Mác, chỉ còn một vài nơi lấy Mác làm bức
bình phong để che đậy những mục nát ở phía bên trong, nhưng câu nói trên kia của Mác, với tôi, vẫn mãi mãi là một lời vàng ngọc. Điều tệ hại là những kẻ một thời theo Mác đã luôn luôn làm ngược lại lời nói này của Mác.
      Chúng tôi mừng cho các anh đã đưa được gia đình ra khỏi nước. Mặc dù tôi biết một người phải bỏ quê hương mà đi, còn đau đớn nào hơn. Ngay cả con cái chúng tôi, vất vả biết chừng nào, mà tôi cũng đành khuyên các cháu phải ra đi để may ra còn tìm được một chút tương lai, giá trị nào đó của kiếp con người.
      Phần tôi, sau khi bị kiểm điểm nặng nề ở trại Nghĩa Lộ,
tôi bị điều ra mặt trận phương Bắc, trong thời kỳ giặc bành trướng Trung Quốc tràn qua biên giới.
Nhờ thương tật, tôi được bố trí một công tác lặt vặt ở hậu cần. Mặt trận kết thúc, tôi bị phục viên về nhà, tiền phụ cấp không đủ nuôi chính bản thân. Tôi chỉ còn một cánh tay mà phải phát rẫy trồng rau để phụ giúp gia đình. 
      Hơn ba năm nay, tôi bị ốm nặng, nằm liệt giường. Nhờ chị em cháu Hà gởi tiền về nuôi tôi và cả gia đình, tôi mới còn sống được đến hôm nay. Biết trốn lại Ba Lan, không có giấy tờ, hai cháu sẽ khó khăn ghê lắm,
nhưng vẫn còn hơn là về lại bên này. Có làm suốt ngày cũng chẳng đủ ăn. May mà nhờ các anh hết lòng giúp hai cháu. Cái ơn này biết khi nào chúng tôi mới trả được cho các anh đây. 
      Tôi biết mình không còn sống bao lâu. Cuối đời một con người, tôi nghiệm rõ được một điều: Chỉ có cái tình con người với nhau mới thực sự quí giá và tồn tại mãi với thời gian. Những chế độ này, chủ nghĩa nọ, cuối cùng cũng chỉ là những đám mây đen bay trên đầu. Đôi khi che ta được chút nắng, nhưng nhiều lúc đã trút bao cơn mưa lũ xuống để làm khốn khổ cả nhân gian..."
* * * * *
       Không ngờ lá thư đầu tiên này cũng là lá thư cuối cùng chúng tôi nhận được từ anh Thà. Anh đã qua đời sau đó không lâu. Nghe cháu Hà kể lại. Khi hấp hối, anh bảo vợ anh mang mấy cái huy chương, anh được cấp trong thời chiến tranh, đào lỗ chôn xuống phía sau nhà. Anh thầm thì: xin hãy chôn chặt hộ tôi cái quá khứ đau thương và lầm lỡ đó lại. Chính nó đã gây biết bao chia lìa, tang tóc, và sự thù hận giữa những người anh em cùng một mẹ, không biết sẽ kéo dài cho đến bao giờ?
Phạm Tín An Ninh(Vương Quôc Na-Uy
 
​Merry Christmas​
 
 

NHỮNG MÙA THU QUA TRONG THƠ, NHẠC

  

image 


Bóng dáng Thu đang rón rén đến đâu đó trong từng cơn gió se lạnh mỗi sớm mai, khí hậu cũng dường như thấp hẳn xuống. Cali bây giờ đã là cuối mùa Hạ. Thỉnh thoảng, trên không trung mênh mang những làn mây xám che mờ khuất tia nắng mặt trời, bầu trời âm u mờ tối như gần hơn, thấp hơn. Điểm thêm vài chiếc lá vàng lìa cành đang bay bay chao liệng trong gió, gợi cho ta cảm giác mùa Thu đang đến gần, thật gần…
 
            Len lén như hình Thu chớm sang,
            Bên thềm thoáng rụng xác lá vàng…
            Sương mai lóng lánh trên cành đọng,
            Chim chuyền cành cất giọng hót vang…
            Nhè nhẹ gió vờn quanh khóm cây,
            Bềnh bồng mây xám ngập ngừng bay…
Nắng Hạ chưa đi, chừng lưu luyến,
Gío Thu chợt đến, rủ hồn say ...(Thu Tâm)
 
Khi trời đất thay màu trên vạn vật. tạo nên những thảm tranh thiên nhiên lộng lẫy làm say đắm mắt nhìn . Khi bầu trời trong xanh ngăn ngắt có đàn bướm rủ nhau về chao lượn trên những khóm hoa tươi ,và khi có lác đác chiếc lá vàng chao nghiêng trên khắp nẻo... 
Để rồi Thu tự lúc nào đã quyến rũ tâm hồn thi nhân , nhạc sĩ. Bối cảnh lãng mạn của mùa Thu đã cho ra đời  những vần thơ, lời nhạc ca ngợi về mùa Thu tuyệt diệu. Mùa Thu, mùa gợi yêu thương gợi mơ mộng, mùa của hẹn thề, mùa của hợp tan …
 
 
 
 Thu Quyến rũ  (youtube)
Tuấn Ngọc
 
 
 
Anh mong chờ mùa Thu
Trời đất kia ngả màu xanh lơ
Đàn bướm kia cười vui trên muôn hoa
Bên những bông hồng đẹp xinh.
Anh mong chờ mùa Thu.
Dìu thế nhân vào chốn thiên thai.
Và cánh chim ngập ngừng không muốn bay
Mùa Thu quyến rũ anh rồi ... (ĐC - TL)
 
Còn gì đẹp hơn bức tranh thơ mộng của cánh rừng dưới ánh trăng , từng chiếc từng chiếc lá vàng rơi ….có đôi tình nhân hạnh phúc ngồi bên nhau cùng ngắm trăng  và lắng nghe tiếng thời gian trôi dưới  bước chân đàn nai khua trên đám lá khô xào xạc.
  
   Em không nghe mùa Thu
   Lá Thu rơi xào xạc
  Con nai vàng ngơ ngác
  Đạp trên lá vàng khô  (Lưu trọng Lư )
             
Từ ý thơ đó, năm 1972 Nhạc Sĩ Ngô Thụy Miên cho ra đời một ca khúc tuyệt vời để đời   :
 
                        Mùa Thu Cho Em (youtube)
                                 Lệ Thu
 
 
Em có nghe mùa Thu mưa giăng lá đổ.
Em có nghe Nai vàng hát khúc yêu đương.
Và em có nghe khi mùa Thu tới,
Mang ái ân mang tình yêu tới,
Em có nghe , nghe hồn Thu nói :
Mình yêu nhau nhé ...
                              
Hay những nốt nhạc lạ trong sáng tác của nhạc sĩ Lam Phương khi ông rung động trước một bóng hồng, tình yêu với những ước muốn lãng mạn trẻ trung trên xứ Paris tình nồng ,
 
   Mùa Thu Yêu Đương  (youtube) 
         tiếng hát Elvis Phương
 
 
 
Anh muốn đôi ta mãi như người tình…
Vui đời hẹn hò khi bên giòng suối
Nửa đêm thanh vắng dìu đến công viên
Đôi trẻ lạc loài  trên xác lá vàng
Mùa Thu yêu đương ...
 
Và đây, tiếng lòng của cô nữ sinh Trưng Vương trong mùa lá Thu bay bay ... mùa tựu trường chợt nghe bâng khuâng khi thấy vắng người xưa ...
Nhạc sĩ Nam Lộc đã ghi lại những xao xuyến thuở học trò qua bài thơ của thi sĩ
Nguyễn thị Lệ Thanh
 
Trưng Vương Khung Cửa  Mùa Thu - 
tiếng hát Ngọc Lan - Kiều Nga

 
 
 
Tim em chưa nghe rung qua một lần.
Làn môi em chưa hôn ai cho thật gần
Tình trần mong manh
Như lá me xanh , ngơ ngác rơi nhanh ...
....
Nắng vấn vương nhẹ gót chân ,
Mùa Thu đã qua một lần
Chợt nghe bâng khuâng , lá rơi đầy sân ...
 
Phạm Anh Dũng cũng nồng nàn không kém với mùa Thu . Hãy lắng nghe tiếng gọi thiết tha của ông hợp cùng giọng hát trầm ấm điêu luyện của ca sĩ Duy Trác. :
 
Gọi Mùa Thu Mơ (Youtube) tiếng hát Duy Trác
 
 
 
Anh gọi mùa Thu mơ
Một sớm Thu sương mờ
Nai vàng đạp trên lá
Bước từng bước xa xa ...
Anh gọi mùa Thu mơ
Trời sớm sông không bờ
Lá vàng rơi lác đác
Dịu dàng cơn gió mơ...
 
 
Một rừng Thu với bát ngát sắc màu lộng lẫy , nhưng sao chỉ có mỗi màu vàng là các thi nhân và nhạc sĩ hay nhắc tới?  Có phải chăng hình ảnh chiếc lá vàng lìa cành nói lên sự chia ly nên dễ gợi lòng thương cảm ?
 Trong lần lang thang ngắm từng chiếc lá thu vàng rơi khi hoàng hôn đang buông xuống . Tôi cảm nhận được một mùa Thu thật đầy đủ ,đẹp não nùng tràn đầy cảm xúc. Nhìn bóng lá chao lượn nghiêng ngả trong làn gió nhẹ ,vàng rợp cả một trời không ,xao xác dưới mặt đất khi bàn chân ai dẫm phải. Lòng chợt bâng khuâng như thương như tiếc nuối ...
 
Cung Tiến  đã nói hết hộ  tâm tư  tôi trong :
 
 Thu vàng (Cung Tiến)
 Hồng Nhung

 
 
Chiều hôm qua lang thang trên đường
Hoàng hôn xuống  chiều thắm muôn hương
Chiều hôm qua mình tôi bâng khuâng
Có mùa Thu về tơ vàng vương vương ...,
 
 
Và đây Mùa Thu Paris của  thi sĩ Cung Trầm Tưởng. Nhà thơ kể chuyện tình mùa Thu với nàng kiều nữ tóc nâu bên vườn Luxemburg . Nhạc sĩ Phạm Duy đã đưa những nốt nhạc vào làm cho bài thơ  thêm  rộn ràng say đắm.  
 
Mùa Thu Paris - Giọng hát Sĩ Phú
 
 
 
 
Mùa Thu Paris , trời buốt ra đi.
Hẹn em quán nhỏ, Hẹn em quán nhỏ, 
Ruợu rưng rưng ly đỏ tràn trề .
Mùa Thu đêm mưa phố cũ hè xưa .
Công viên lá đổ ,Công viên lá đổ .
Chờ mong em gắng khổ từng giờ ... (CTT )
 
 
Nhưng trong lòng Nhạc sĩ trẻ tuổi tài hoa Đặng Thế Phong , trong tiếng mưa Thu rơi  ông  chỉ thấy một cảnh u buồn thê thiết. Dù mới hơn hai mươi tuổi, ông đã cảm nhận được  nỗi sầu thương và viết lên những lời than thở  như tiếng mưa núc nở trong đêm....
 
 
                              Giọt Mưa Thu -tiếng hát Ánh Tuyết.
 
 

Ngoài hiên giọt mưa Thu thánh thót rơi,
Trời lắng u buồn mây hắt hiu ngừng trôi .
Nghe gió thoảng mơ hồ trong mưa Thu
Ai khóc ai than hờ
Vài con chim non chim  chíp kêu trên cành
Như nhủ trời xanh ...
Gió ngừng đi, mưa buồn chi
Cho cõi lòng lâm ly ... (ĐTP)
 
            Có những người thấy mùa Thu thật trữ tình, thật lãng mạn, thật dễ thương. Bởi họ đang được cùng người yêu tay nắm tay đi trên con đường hạnh phúc. Mùa Thu lúc này đối với họ là cả chuỗi ngày dài thơ mộng, đáng yêu. Nhưng đến khi tình yêu đã vỗ cánh ra đi thì mùa Thu lại là nỗi đớn đau dằn vặt khó quên, mỗi khi Thu theo gió heo may ghé qua  cuộc đời gợi nỗi nhớ dâng cao... ...
 
 
Từ Công Phụng cũng thổn thức khi nhận ra Thu đang về cùng lúc nói lời chia tay với người yêu. Bài hát với lời nhẹ nhàng tha thiết gởi gấm cả tâm tình u uẩn:
 
Mùa Thu Mây Ngàn (youtube)
tiếng hát Tuấn  Ngọc- Thái Hiền  
 
 
 
 
 
Chiều nay có mùa Thu đi về,   
Buồn vương mây ngàn giăng khắp lối 
Mùa Thu bơ vơ đến bên trời
Ru tóc em suối nguồn ...
Gọi hồn trong gió Thu buồn 
Ngày mai chúng mình xa nhau rồi
Cầm tay em nhìn sao không nói . (TCP)
 
Và mùa Thu trong bài thơ nổi tiếng của TTKH xa xưa : Hai Sắc Hoa Tigôn, đã làm biết bao người nghẹn ngào thương cảm cũng như tốn biết bao giấy mực khi cố công tìm kiếm người sáng tác . Suốt một thời gian dài vẫn là một bí ẩn gói ghém trong bốn chữ viết tắt :TTKH
 
 Một  mùa Thu trước, mỗi hoàng hôn
Nhặt cánh hoa rơi chẳng thấy buồn.
Nhuộm ánh nắng tà trên mái tóc,
Tôi chờ người đến với yêu đương…
Người ấy thường hay ngắm lạnh lùng
Giải đường xa vút bóng chiều phong
Và phương trời thẳm mờ sương cát
Tay vít giây hoa trắng chạnh lòng ...
 
Nhạc sĩ Võ Tá Hân đã đồng cảm và phổ thành ca khúc :
 
Hai Sắc Hoa Tigon . tiếng hát Thùy Dương
 
 
Nhạc Sĩ Phạm Trọng Cầu diễn tả nỗi ray rứt trong tình yêu khi một người đã rời khỏi.Tất cả từ tâm hồn đến vạn vật đều chơi vơi trống vắng , Và tưởng chừng như mùa Thu không bao giờ còn trở lại nữa , vì đời đã thiếu bóng em.
 
Mùa Thu Không Trở Lại:
Giọng Hát Sĩ Phú 
 
 
 
Em ra đi mùa Thu,
                        Mùa Thu không trở lại.
                        Đếm lá úa mùa Thu,
                        Đo sầu ngập tim tôi…
                                            ( Mùa Thu Không Trở Lại  - PTC)
Nhạc Sĩ Trường Sa dàn trải thiết tha ray rứt trong những chiều mùa Thu mưa rơi , em như cánh chim bay khuất xa . Vòng tay lẻ loi một mình trong nỗi nhớ xót xa, tôi gọi mãi tên em . ..
Mùa Thu Trong Mưa - tiếng hát Lệ Thu
 
 
 Chiều mưa không có em,bờ đá công viên âm thầm
Chiều mưa không có em, giăng mắc mây không buồn trôi
Gọi mùa Thu lãng quên vào tiếng mưa rơi êm đềm
Trời còn mưa ướt thêm cho dài ngày tháng không tên
Chiều mưa không có em đường phố quên chưa lên đèn
Chiều mưa không có em  biết lấy ai chia hờn tủi .
Trời mùa Thu lắm mây còn bước em đi quên về
Vòng tay ôm lẻ loi cho mình còn mãi thương nhau ... (Trường Sa)
 
 
Nhạc Sĩ Lam Phương cũng khơi dậy tâm tình kẻ bị mất tình yêu, so sánh nỗi buồn qua số lượng những vì sao và hàng hàng lớp lớp  lá vàng trong rừng vắng . Nỗi đau càng thấm thía hơn trong trời chiều Thu nhạt nắng ,những kỷ niệm mặn nồng lại tràn dâng sống lại . Khối tình nặng trĩu trong lòng khó làm sao vơi bớt , nên trong mắt bây giờ chỉ thấy cả bầu trời Thu một màu sầu úa mênh mông...
 
Thu Sầu (LP) - tiếng hát Ngọc Lan
 
 
Mùa Thu thưa nắng gió mang niềm nhớ,   
Trời chiều man mác buồn nát con tim…
Lệ tình đẫm ướt tà áo trinh nguyên
Kỷ niệm êm đềm còn in trên giấy ...
                                                            (Thu Sầu -Lam Phương )
 
 Người ta bảo màu tím là màu thủy chung son sắt , màu nói lên nỗi nhớ nhung chờ đợi. Người con gái ngây thơ mơ mộng rất yêu màu áo tím  ,chiếc áo dài thướt tha trong từng chiều Thu .Chưa kịp mơ ước dài lâu bên người tình,  người sợ màu tím là màu buồn chia cách nên nàng phải lìa bỏ. Nhưng cũng không níu giữ được chân kẻ ra đi, bây giờ màu tím chỉ còn là màu buồn tủi tiếc nuối .
Nhạc sĩ Hoàng Trọng đã diễn đạt sâu sắc trong :

 Ngàn Thu Áo Tím - tiếng hát Khánh Ly
 
Ngày xưa xa xôi em rất yêu màu tím
Ngày xưa vô tư em sống trong chìu mến
Chiều xuống áo tím thường thướt tha
Bước trên đường gấm hoa, ngắm mây chiều lướt xa.
Từ khi yêu anh anh bắt xa màu tím
Sầu thương cho em mơ ước chưa kịp đến ,
Trời đã rét mướt cùng gió mưa 
Khóc anh chiều tiễn đưa
Thế thôi tàn giấc mơ... (HT)

 
Và đây một Phạm Duy với nỗi tuyệt vọng não nề. Mùa Thu sẽ chẳng còn nữa khi không còn người yêu cùng ta sóng bước .
Bài thơ mang tên L' Adieu  của thi sĩ Guillaume Apollinaire ,  được PD phổ thành ca khúc "Mùa Thu Chết " tuyệt vời  từ năm 1965 cho tới ngày nay vẫn còn được ghi nhớ trong lòng những người yêu nhạc.
 
Mùa Thu Chết (PD) tiếng hát Lệ Thu
 
 
 
Ta ngắt đi một cụm hoa Thạch Thảo
Em nhớ cho mùa Thu đã chết rồi .
Mùa  Thu đã chết, em nhớ cho
Mùa Thu đã chết, em nhớ cho .
Mùa Thu đã chết, đã chết rồi em nhớ cho , em nhớ cho
Em nhớ cho, đôi chúng ta sẽ chẳng còn nhìn nhau nữa
Trên cõi đời này, trên cõi đời này.
Từ đây mãi mãi không thấy nhau..
                                                 (Mùa Thu Chết - PD )
 
 
Trịnh Công Sơn đếm từng mùa Thu qua đi trong nỗi cô đơn ,ngay cả ánh nắng cũng mang một màu sầu thảm ! Ngày từng ngày  lịm chết dưới Thu vàng... 
 
Nhìn Những Mùa Thu Đi (TCS) - Khánh Ly 
 
 
Nhìn những mùa Thu đi,
 Anh nghe sầu lên trong nắng… 
Và lá rụng ngoài song.
Nghe tên mình vào quên lãng.
Nghe tháng ngày chết trong Thu vàng ...
                                     (Nhìn Những Mùa Thu Đi - TCS )
 
            Đoàn Chuẩn- Từ Linh cùng cho ra một tác phẩm khó phai nhạt trong lòng người  thưởng thức. Ngậm ngùi nhìn người yêu lên xe hoa nhà người ta khi Thu về có lá rơi tứ phía tưởng chừng như giọt nước mắt chia ly, lời trách móc nhẹ nhàng  ...
 
                  Lá Đổ Muôn Chiều - Tiếng hát Duy Trác


 
  
Thu đi cho lá vàng bay, lá rơi cho đám cưới về.
  Ngày mai người em nhỏ bé
  Ngồi trong thuyền hoa, tình duyên đành dứt.
 Có những đêm về sáng,
 Đời sao buồn chi mấy cố  nhân ơi!…
Đã vội chi men rượu nhấp đôi môi ...
                                               (Lá Đổ Muôn Chiều - Đoàn Chuẩn - Từ Linh)
 
            Kể làm sao cho hết những mối tình buồn, vui đến và đi trong từng mùa Thu. Và còn rất nhiều rất nhiều bài thơ, bài hát ca tụng nhan sắc của mùa Thu.  Phải chăng cảnh sắc vừa nên thơ vừa ảm đạm của mùa Thu đã ảnh hưởng đến tâm hồn người,  nên thường có những mối tình được nảy nở cũng như có nhiều cuộc chia ly đầy nước mắt trong mùa này nhiều hơn các mùa khác. Hoặc sự chia ly xảy ra quá nhiều trong thời gian những tháng ngày này nên mùa Thu trở nên buồn và đáng nhớ ?  
         Mỗi người trong chúng ta chào đón mùa Thu đến với một tâm trạng khác nhau. Riêng tôi, cứ mỗi lần Thu đến, lòng lại chợt nao nao vẩn vơ những nỗi buồn, nỗi nhớ xa xăm…. Hồn Thu như thấm đậm trong tâm tư, trong từng luồng suy nghĩ, gió Thu như buốt xoáy hơn từng thoáng ngậm ngùi nuối tiếc. Thu đến rồi Thu đi, vẫn thế, luôn để lại một chút gì đó lãng đãng trong không gian cho hồn chập chùng nỗi nhớ. Kỷ niệm thì có qúa nhiều để không còn muốn nhớ, nhưng vẫn còn đó không phai mờ trong tim. Lòng tôi luôn bâng khuâng trong từng chiều buồn lành lạnh hơi gió heo may …
            Mùa Thu của Năm Tháng và mùa Thu của Kiếp Người,  đều có chút gì đó khiến lòng tôi man mác liên tưởng, lại càng nhớ nhung thương quý hơn những gì trong kỷ niệm… Tôi yêu mùa Thu não nùng đẹp , yêu cả những bài thơ và từng bản nhạc đã được nghe qua, rung động trước đôi tình nhân vai kề vai trong nắng Thu và thương cảm lây cho những mối tình tan vỡ trong Thu . Thu đã là đề tài muôn thuở của những thi, nhạc sĩ ,từ đó làm giàu cho kho tàng văn chương và âm nhạc VN,.  cũng khiến thổn thức bao nhiêu tâm hồn và đã một số không nhỏ trong những tác phẩm đó đã bất tử với thời gian .
Trong khuôn khổ hạn hẹp, tôi chỉ ghép nhặt đưa lên một it nhạc phẩm  tượng trưng về mùa Thu của một số tác giả tiền chiến  mà tôi đã từng yêu thích, cũng như tiêu biểu một ít sáng tác của vài tác giả thời tôi còn đi học.
 
Đời người rồi cũng đến một ngày rời bỏ tất cả như chiếc là vàng lìa cây ,có hợp và có tan là lẽ tự nhiên của tạo hóa . Và mùa Thu cũng do tạo hóa sắp đặt để mỗi năm lại rực rỡ quay về ,héo tàn ra đi, suốt bao đời làm rạo rực trái tim thi nhân , bừng tỉnh những nốt nhạc ...
 
Thu Tâm
Thu 2013